Skip to main content
x
24 March 2020

        Với mục tiêu xây dựng Chính quyền điện tử nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước và chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp; phát triển Chính quyền điện tử  dựa trên dữ liệu và dữ liệu mở hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số; bảo đảm an toàn thông tin và an ninh mạng; nâng cao chỉ số xếp hạng chỉ số sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin (ICT - Index) của tỉnh; Xây dựng Chính quyền điện tử  tỉnh Lạng Sơn theo Nghị quyết số 17-NQ/CP ngày 7 tháng 3 năm 2019 của Chính phủ về một số nhiệm vụ giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2019 – 2020, định hướng đến năm 2025 và Khung Kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam, Kiến trúc Chính quyền điện tử tỉnh nhằm nâng cao năng lực chỉ đạo, điều hành, đẩy mạnh cải cách hành chính phục vụ các doanh nghiệp và người dân ngày càng hiệu quả; góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và nâng cao chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh;

        Trong những năm vừa qua, công tác xây dựng chính quyền điện tử trên địa bàn tỉnh đã đạt được một số kết quả bước đầu quan trọng.

        Về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước. Duy trì hoạt động ổn định Hệ thống quản lý văn bản điều hành của các cơ quan đơn vị; hệ thống hội nghị truyền hình trực tuyến đến cấp xã; cổng thông tin điện tử hỗ trợ doanh nghiệp; Cổng thông tin du lịch; Duy trì sử dụng mạng truyền số liệu chuyên dùng kết nối mạng diện rộng liên thông 3 cấp Trung ương, tỉnh, huyện đảm bảo an toàn thông tin. Triển khai chuyển đổi Hệ thống phần mềm Văn phòng điện tử eOffice sang Hệ thống Quản lý văn bản và điều hành VNPT-iOffice phiên bản 4.0 cho các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh theo Kế hoạch số 141/KH-UBND ngày 13/8/2019 của UBND tỉnh; chỉ đạo Viễn thông Lạng Sơn (đơn vị cho thuê Cổng DVCTT và hệ thống thông tin một cửa điện tử), cấu hình, cập nhật Bộ thủ tục cấp xã trên Cổng DVCTT và hệ thống thông tin một cửa điện tử của tỉnh, cung cấp được 35 DVCTT mức độ 3 và 05 DVCTT mức độ 4, đạt tỷ lệ 43%; triển khai thực hiện các nội dung xây dựng Cổng Dịch vụ công quốc gia; Phối hợp với Đơn vị tư vấn thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông xây dựng, cấp nhật Kiến trúc Chính quyền điện tử tỉnh Lạng Sơn, phiên bản 2.0.

        Triển khai nâng cấp, mở rộng hệ thống hội nghị truyền hình trực tuyến của tỉnh đến 100% đơn vị cấp huyện, cấp xã với 217 điểm cầu, trong đó có 02 điểm cầu chính đặt tại UBND tỉnh và Sở Thông tin và Truyền thông; 11 điểm cầu tại UBND các huyện, thành phố; 204 điểm cầu tại UBND các xã, phường, thị trấn; có 64 cuộc họp trực tuyến, trong đó có 06 cuộc họp liên thông bốn cấp Trung ương, tỉnh, huyện và xã; 16 cuộc họp trực tuyến liên thông cấp tỉnh, huyện, xã; Triển khai hạ tầng mạng truyền số liệu chuyên dùng cấp II để kết nối liên thông các ứng dụng trong cơ quan nhà nước các cấp.

        Hoàn thành: việc xây dựng, cập nhật Khung kiến trúc Chính quyền điện tử cấp tỉnh phiên bản 2.0, bảo đảm phù hợp với Khung kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Namviệc chuyển đổi Hệ thống Quản lý văn bản và điều hành VNPT iOffice các cấp; 100% các cơ quan nhà nước cấp tỉnh, huyện đã được cấp chữ ký số chuyên dùng và tích hợp trên Sim điện thoại di động; Hệ thống thư điện tử công vụ của tỉnh đã cấp cho 100% các cơ quan nhà nước từ cấp tỉnh đến cấp xã và 100% cán bộ, công chức đã sử dụng hộp thư điện tử công vụ để trao đổi công việc; tổng số tài khoản thư điện tử công vụ được cấp là 12.237 tài khoản; Hạ tầng kỹ thuật CNTT trong các cơ quan nhà nước cơ bản đáp ứng yêu cầu, 100% các cơ quan, đơn vị có kết nối Internet tốc độ cao và hệ thống mạng LAN được xây dựng hoàn thiện. Các trang thiết bị phụ trợ như máy in, máy photo, máy quét, thiết bị mạng cơ bản đáp ứng yêu cầu công tác; tỷ lệ số máy tính/cán bộ, công chức của các cơ quan, đơn vị khối hành chính đạt 94%. Trong đó, cấp Sở, ban, ngành đạt 100%; cấp huyện đạt 100%; cấp xã, phường, thị trấn đạt trên 82%.

        Về triển khai, thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 và Dịch vụ Bưu chính công ích: Trong năm 2019, hệ thống dịch vụ công trực tuyến đã được triển khai, cung cấp trên Cổng dịch vụ công và Hệ thống thông tin một cửa điện tử của tỉnh là 1.814 DVCTT.

        Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, một số cơ quan đợn vị từ tỉnh đến cơ sở nhận thức chưa đầy đủ về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc xây dựng chính quyền điện tử; chưa thực hiện tốt vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong chỉ đạo xây dựng chính quyền điện tử; thiếu sự gắn kết giữa ứng dụng công nghệ thông tin với cải cách hành chính và đổi mới lề lối, phương thức làm việc. Các văn bản pháp lý liên quan đến xây dựng chính quyền điện tử ban hành chậm, thiếu tính đồng bộ. Nguồn nhân lực chuyên trách về công nghệ thông tin còn thiếu và yếu; năng lực ứng dụng công nghệ thông tin của cán bộ, công chức, viên chức ở nhiều cơ quan, đơn vị còn thấp. Ngân sách nhà nước cấp cho xây dựng chính quyền điện tử còn hạn hẹp; chưa có cơ chế phù hợp để thu hút các nguồn vốn đầu tư ngoài ngân sách. Tỷ lệ người dân và danh nghiệp tham gia sử dụng dịch vụ công trực tuyến còn thấp. Việc đảm bảo an toàn, an ninh hệ thống thông tin của các cơ quan nhà nước chưa được chú trọng đúng mực. Sự phối hợp giữa các sở, ban, ngành, giữa cấp tỉnh với cấp huyện còn chưa chặt chẽ; nhiều khó khăn, vướng mắc chậm được tháo gỡ.

        Để phát huy những kết quả đạt được và khắc phục những khó khăn hạn chế nêu trên thì trong thời gian tới các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau:

        Một là, đẩy mạnh công tác phổ biến tuyên truyền và triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Nghị quyết số 17/NQ-CP của Chính phủ về một số nhiệm vụ trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2019 – 2020, định hướng đến năm 2025, qua đó nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, tạo sự ủng hộ, hưởng ứng của người dân, doanh nghiệp trong quá trình xây dựng chính quyền điện tử mang lại nhiều sự đổi mới tích cực về phương thức làm việc, xây dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp; góp phần tinh giản bộ máy và biên chế, tiết kiệm thời gian, chi phí, nâng cao hiệu quả công việc của cán bộ, công chức, viên chức và các cơ quan đơn vị trong bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể; nâng cao chất lượng phục vụ, giải quyết công việc nhanh chóng, thuận lợi, minh bạch, liên thông, đáp ứng nhu cầu, lợi ích chính đáng của người dân. Người đứng đầu các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị cần có quyết tâm chính trị cao, thực hiện đầy đủ trách nhiệm, thường xuyên tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai đồng bộ các nội dung, nhiệm vụ xây dựng chính quyền điện tử ở cơ quan, tổ chức mình.

        Hai là, tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện và bổ sung các quy định cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tạo hành lang pháp lý cho xây dựng Chính quyền điện tử trên địa bàn tỉnh, nhất là hoàn thiện các quy định về định danh, xác thực cá nhân, tổ chức giao dịch điện tử; về văn thư, lưu trữ điện tử; nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin của các cơ quan hành chính nhà nước; về chính sách đào tạo, phát triển, thu hút nguồn nhân lực công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu thực tiễn. chú trọng xây dựng và triển thực hiện các quy định nhằm bảo đảm sự đồng bộ, liên thông trong gửi nhận văn bản, cung cấp thông tin phục vụ lãnh đạo, quản lý, điều hành giữa các cơ quan trong cùng hệ thống chính trị ngang cấp và giữa các cấp với nhau.

        Ba là, xây dựng chính quyền điện tử phải gắn chặt với đổi mới lề lối, phương thức làm việc và cải cách hành chính, theo hướng tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đưa các thủ tục hành chính lên môi trường mạng, phấn đấu đến năm 2025 đạt 100% thủ tục hành chính được triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4; tỷ lệ hồ sơ giải quyết theo dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức  độ 4 trên tổng số hồ sơ đạt 40% trở lên.

        Bốn là, quan tâm phát triển hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin. Xây dựng, hoàn thiện cơ sở dữ liệu, kết nối liên thông, chia sẻ với hệ thống thông tin một của điện tử, cổng dịch vụ thông tin ở một số ngành như: Bảo hiểm, Y tế, Giáo dục và đào tạo, du lịch, nông nghiệp...; nghiên cứu xây dựng một số mô hình thí điểm  có thể nhân rộng, như: Đô thị thông minh, xã điểm nông thôn mới trong ứng dụng công nghệ thông tin. Rà soát và triển khai mở rộng, kết nối mạng đến cơ quan Đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội từ tỉnh đến xã. Nâng cao năng lực mạng lưới viễn thông, dịch vụ bưu chính công ích đáp ứng nhu cầu xây dựng chính quyền điện tử của tỉnh.

        Năm là, chú trọng đầu tư ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ hoạt động của cơ quan nhà nước và đáp ứng nhu cầu của người dân, doanh nghiệp; lựa chọn các giải pháp, phương án đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp, tiết kiệm và hiệu quả, kết hợp hình thức xã hội hóa, thuê dịch vụ công nghệ thông tin nhằm giảm chi phí đầu tư, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tham gia vào cac hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin của cơ quan nhà nước.

        Sáu là, chú trọng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức công nghệ thông tin có chuyên môn nghiệp vụ vững, phong cách làm việc chuyên nghiệp và khoa học, năng lực quản lý tốt đẻ nâng cao chất lượng thẩm định, phê duyệt các nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin. Hằng năm, có kế hoạch bồi dưỡng, tập huấn nâng cao kiên thức, kỹ năng cho cán bộ, công chức, viên chức sử dụng thành thạo các phần mềm ứng dụng trong công việc. Nâng cao chất lượng dạy và học môn tin học trong các nhà trường, trung tâm đào tạo. thực hiện sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực thông tin và truyền thông theo chủ trương và lộ trình của Chính phủ.

        Bảy là, Triển khai các hệ thống ngăn chặn, giám sát, cảnh báo nhằm bảo đảm an toàn, an ninh thông tin; không để lộ, lọt bí mật nhà nước; bảo đảm khả năng sao lưu, vận hành ổn định và an toàn các hệ thống cơ sở dữ liệu; chủ động phòng ngừa, ứng phó với các sự cố, lỗ hổng nguy hiểm về an ninh mạng.

        Tám là, đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ, nhất là với các đối tác chiến lược có trình độ khoa học công nghệ tiên tiến; có chương trình ký kết, thỏa thuận hợp tác với tỉnh; thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước trong xây dựng chính quyền điện tử, nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao công nghệ, thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo./.

                                                                                                    ThS. Hoàng Ngọc Hiếu

                                                                                        Khoa Nhà nước và pháp luật