Skip to main content
x
18 December 2019

     Đêm ngày 19/12/1946, tại nhà ông Nguyễn Văn Dương, làng Vạn Phúc (Hà Đông), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến thể hiện những quan điểm cốt lõi của Người về kháng chiến toàn dân, cũng như mệnh lệnh của non sông, thôi thúc cả dân tộc chung sức, đồng lòng vùng dậy quyết chiến, quyết thắng thực dân Pháp xâm lược. Trải qua hơn 73 năm, tác phẩm, bút tích của Người cùng những tư tưởng trong đó vẫn sáng ngời giá trị và ý nghĩa lớn lao, trở thành một trong năm “Bảo vật Quốc gia” theo Quyết định số 1426/QĐ-TTg ngày 01/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc công nhận bảo vật quốc gia Việt Nam.
     Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ với hơn 200 từ nhưng rất súc tích cô đọng, thể hiện những tư tưởng lớn có giá trị sâu sắc.
     Một là, vạch trần âm mưu, dã tâm xâm lược của thực dân Pháp.
     Ngay câu mở đầu Lời kêu gọi Người viết: “Hỡi đồng bào toàn quốc!
     Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!(1)

     Cách mạng Tháng Tám thành công. Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chỉ 21 ngày sau, ngày 23/9/1945, thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta. Tuy vậy, Chính phủ ta vẫn tiếp tục chủ trương hòa bình, ký Hiệp định sơ bộ (06/3/1946), nhận Việt Nam là nước tự do (chưa phải độc lập), nhượng bộ cho quân Pháp ra đóng ở miền Bắc (sẽ rút dần trong 5 năm). Ta lại ký Tạm ước 14/9/1946 mong duy trì đàm phán hòa bình. Song ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Thực dân Pháp không chịu ngừng bắn ở miền Nam (từ 0 giờ 30 ngày 30/10/1946) theo quy định trong Tạm ước mà chúng đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, đổ thêm quân vào Đà Nẵng, tăng cường khiêu khích ngay ở Thủ đô.
     Ngày 18 và 19/12/1946, đại diện Pháp liên tiếp gửi tối hậu thư cho Chính phủ ta. Thực tế cho thấy khả năng hòa hoãn không còn. Địch đã công khai tuyên bố chúng sẽ hành động sáng 20/12/1946 nếu Chính phủ ta khước từ những điều nêu trong tối hậu thư của chúng. Tình hình đã đến lúc cực kỳ căng thẳng, bởi vì từ sau Hiệp định sơ bộ 6/3, hơn 6.500 quân Pháp đã vào đóng xen kẽ với ta ở 45 điểm trong thành phố Hà Nội. Để quân Pháp nổ súng đánh trước thì ta sẽ lâm vào bị động và thế trận dễ bị chia cắt.
     Để có thể kéo dài hơn những giờ phút hòa bình quý giá và thể hiện thiện chí của ta, sáng 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi cho Xanhtơny, ủy viên Cộng hòa Pháp ở miền Bắc Đông Dương: yêu cầu cùng ông Hoàng Minh Giám “tìm giải pháp để cải thiện bầu không khí hiện tại”. Khi Thứ trưởng Ngoại giao Hoàng Minh Giám yêu cầu gặp, Xanhtơny đã khước từ, nói là sẽ tiếp vào hôm sau. Nhưng hôm sau là 20/12 - ngày mà quân đội Pháp đã đơn phương quyết định “Tự mình đảm nhiệm việc duy trì an ninh trong thành phố”. Thấy trước được khả năng tất yếu sẽ phải xảy ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã tích cực và chủ động chuẩn bị cho ngày toàn quốc kháng chiến.
     Hai là, tư tưởng về độc lập dân tộc, tự do và niềm tin thắng lợi đối với cuộc đấu tranh vì chính nghĩa của dân tộc ta
     Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi độc lập dân tộc và tự do, hòa bình là mục tiêu phấn đấu suốt đời mình. Người từng viết: Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho tổ quốc tôi, đó là tất cả những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi hiểu.
     Hồ Chí Minh khẳng định, độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến một lần nữa Người khẳng định đanh thép: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” (2).
     Kết thúc lời kêu gọi, Bác khẳng định niềm tin tất thắng:
     “Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta.
     Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!
     Kháng chiến thắng lợi muôn năm!”(3).

     Lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh như một lời hịch của non sông đất nước cổ vũ tinh thần yêu nước của toàn dân đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược.
     Ba là, tư tưởng về kháng chiến toàn dân, chiến tranh nhân dân
     Trong Lời kêu gọi này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày quan điểm “chiến tranh toàn dân” một cách vô cùng giản dị và hào hùng. Có thể nói, nét độc đáo, đặc sắc nhất trong đường lối quân sự của Đảng và tư tưởng quân sự Chủ tịch Hồ Chí Minh là ở hai chữ “toàn dân”.
     Lời kêu gọi này được coi như một văn kiện mang tính cương lĩnh quân sự về khởi nghĩa toàn dân, kháng chiến toàn dân là lực lượng vũ trang ba thứ quân. Tiếp theo Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là văn kiện thứ hai mang tính cương lĩnh quân sự về kháng chiến toàn dân. “Toàn dân” theo tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh là toàn dân tộc.
     “Hỡi đồng bào!
      Chúng ta phải đứng lên!
     Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”(4).

     Người cũng đã vạch ra chiến lược chiến tranh nhân dân, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, đồng thời khẳng định cuộc kháng chiến sẽ nhất định đi đến thắng lợi vẻ vang.
     Bác có một lời kêu gọi dành riêng cho bộ đội, tự vệ, dân quân:
     “Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước”(5).
     Đáp lại lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vào lúc 20 giờ ngày 19-12-1946, bằng những loạt đại bác từ pháo đài Láng bắn vào các mục tiêu của địch trong thành phố, quân và dân Thủ đô Hà Nội chính thức mở đầu cuộc kháng chiến chống Pháp với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”.
     Ngày 20-12-1946, tại Hang Trầm (Chương Mỹ, Hà Nội), đài Tiếng nói Việt Nam phát đi Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
     Thủ đô Hà Nội ngày ấy mỗi ngôi nhà là một pháo đài, mỗi đường phố là một chiến tuyến, mỗi người dân là một chiến sỹ. Nhân dân Thủ đô không quản hy sinh, gian khổ ngày đêm lập những chiến lũy trên đường phố Hà Nội để ngăn cản bước tiến quân thù.
     Cùng với Hà Nội, quân và dân các địa phương khắp Bắc, Trung, Nam, từ Hải Phòng, Nam Định, Hải Dương… đến Thanh Hóa, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn… đã đồng loạt anh dũng đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Cả dân tộc muôn người như một, chung sức đồng lòng, nhất tề đứng lên cầm vũ khí chống giặc ngoại xâm với ý chí sục sôi, quyết tâm hy sinh và niềm tin tất thắng
     Đó chính là cuộc kháng chiến toàn dân, huy động sức mạnh toàn dân và mục đích của kháng chiến cũng xác định rất rõ, là đấu tranh để giành độc lâp, thống nhất hoàn toàn cho dân tộc. Cho nên có thể coi đây là công trình có tính nền tảng để sau đó Đảng ta tiếp tục phát triển đường lối kháng chiến trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
     Thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã kết thúc thắng lợi sau 9 năm trường kỳ kháng chiến chống Pháp bằng Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
     Ngày 30/4/1975 ta đã cắm lá cờ lên nóc Dinh Độc lập, giải phóng miền Nam kết thúc cuộc chiến tranh, đem lại độc lập thống nhất toàn vẹn cho đất nước.
     Hơn 73 năm sau ngày toàn quốc kháng chiến, đất nước ta đã trải qua nhiều sự kiện chính trị lớn và tiến những bước dài, tình thế đã có nhiều thay đổi, nhưng Lời kêu gọi thiêng liêng bảo vệ Tổ quốc vẫn khắc sâu trong tâm khảm mỗi người Việt Nam hôm nay; ý nghĩa lịch sử và tầm vóc thời đại của nó vẫn còn nguyên giá trị. Đặc biệt trong đó, bài học về khơi dậy, tập hợp và phát huy sức mạnh toàn dân đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự.
     Tiếp nối hào khí của bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” thời Lý, “Hịch tướng sĩ” thời Trần, “Bình Ngô đại cáo” thời Lê Sơ... Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là một áng hùng văn bất hủ, chứa đựng những giá trị và tư tưởng mang tính thời đại. Những tư tưởng cơ bản đó cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng sáng tạo trong giai đoạn mới của cách mạng.
     Trong giai đoạn hiện nay, trước những thời cơ và thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế, giá trị lịch sử của "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" vẫn luôn là kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng của Đảng và toàn thể dân tộc ta, cổ vũ cán bộ, chiến sĩ, đồng bào kề vai sát cánh, chung sức, đồng lòng. Quán triệt quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về kháng chiến toàn dân, Đảng ta tiếp tục phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
Chú thích : (1), (2), (3),(4), (5): Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.534.
                                                                                                            ThS. Vi Thị Tuyết
                                                                                                     GV Khoa Xây dựng Đảng