Skip to main content
x
5 March 2024

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược và từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam, biến một quốc gia phong kiến độc lập thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Sự thống trị tàn bạo của thực dân Pháp đã làm cho mâu thuẫn dân tộc diễn ra hết sức gay gắt. Các nhà yêu nước đương thời đã dự lập nhiều con đường, cách thức hành động khác nhau để cứu nước và giải phóng dân tộc, tiêu biểu là phong trào Cần Vương do Vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng; phong trào Đông Du của Phan Bội Châu; phong trào cải cách của Phan Chu Trinh, khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo... Các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tuy diễn ra quyết liệt, nhưng cuối cùng đều bị thất bại. Nguyên nhân sâu xa là do thiếu đường lối chính trị đúng đắn, khoa học, thiếu sự lãnh đạo của một giai cấp tiên tiến. Giai cấp địa chủ phong kiến, có vai trò tiến bộ nhất định trong lịch sử đã trở thành giai cấp phản động, bán nước, tay sai cho đế quốc. Giai cấp tư sản mới ra đời, còn non yếu với lực lượng kinh tế phụ thuộc và khuynh hướng chính trị cải lương, không có khả năng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến để giành độc lập tự do. Giai cấp nông dân và tiểu tư sản khao khát độc lập, tự do, hăng hái chống đế quốc và phong kiến, nhưng không thể vạch ra con đường giải phóng đúng đắn và không thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng. Cách mạng Việt Nam đứng trước cuộc khủng hoảng trầm trọng về đường lối cứu nước.

Với nhạy cảm chính trị của một trí tuệ hiếm có, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã có được dự cảm nhất định về sự chuyển biến của thời đại. Kẻ xâm lược mới đến từ phương Tây, mang theo sức mạnh của văn minh phương Tây. Muốn thắng được họ, phải đi tìm một con đường khác. Đó là con đường nào? Ở tuổi 20, người thanh niên ấy chưa thể trả lời ngay được, nhưng sự lựa chọn đầu tiên là ngược với làn sóng Đông du, một mình đi sang phương Tây, nơi sớm nổ ra các cuộc cách mạng dân chủ tư sản, nơi các trào lưu tư tưởng tự do dân chủ và khoa học kỹ thuật đang phát triển mạnh mẽ. Phải ra đi xem xét họ làm ăn thế nào để trở về giúp đồng bào. Khát vọng đó của Người đã nảy nở từ rất sớm và lớn dần lên theo năm tháng.

Để rồi, ngày 5/6/1911, với tên mới Văn Ba, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã lên con tàu Latouche Tréville rời bến cảng Nhà Rồng bắt đầu cuộc hành trình 30 năm tìm con đường cứu nước, cứu dân với một ý chí mãnh liệt, một nghị lực phi thường.

1

Vì sao trong hành trình đầu tiên đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành lại chọn hướng sang phương Tây mà không chọn sang Nhật Bản hay Trung Hoa Dân Quốc như một chí sĩ yêu nước đương thời? Năm 1923, Người đã trả lời nhà báo Liên Xô Ôxip Manđenxtam về chuyến đi ngày 5/6/1911 như sau: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy. Nhưng trong những trường học cho người bản xứ, bọn Pháp dạy người như dạy con vẹt. Chúng giấu không cho người nước tôi xem sách báo. Không phải chỉ sách của các nhà văn mới, mà cả Rútxô và Môngtexkiơ cũng bị cấm. Vậy thì phải làm thế nào bây giờ? Tôi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài”[1]. Một lần khác trả lời một nhà văn Mỹ, Người nói: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”[2].

Một lí do khác có thể thấy là tất cả các phong trào của các bậc cha, anh đi sang Trung Quốc, Nhật Bản đều bị thất bại. Nguyễn Tất Thành rất khâm phục tinh thần yêu nước của các sĩ phu, văn thân, chí sĩ xả thân vì nước, nhưng Người không tán thành đường lối cứu nước của các bậc tiền bối. Tư tưởng yêu nước của Nguyễn Tất Thành tuy lúc đó chưa có một ý niệm rõ ràng về giai cấp, đấu tranh giai cấp, đảng chính trị, chủ nghĩa Mác-Lênin nhưng đã thể hiện tư duy “vượt thời đại” của Người so với nhân sĩ, trí thức yêu nước ở Việt Nam lúc bấy giờMặc dù sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho, sớm thông tuệ đạo Thánh hiền, “lấy đức trị quốc”, nhưng Nguyễn Tất Thành đã vượt qua phương thức chống giặc ngoại xâm theo lập trường của phong kiến, không đi theo con đường cứu nước của Nho giáo. Người cũng đã vượt qua lập trường dân chủ tư sản và tiểu tư sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến như Việt Nam; đồng thời phê phán tính không triệt để của nó; thấy được lập trường dân chủ tư sản, tiểu tư sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến chưa đủ sức tập hợp lực lượng để chống lại chủ nghĩa thực dân, tất yếu sẽ bị thất bại, bị thực dân Pháp đàn áp dã man. Người cho rằng, chủ trương của cụ Phan Chu Trinh yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương chẳng khác gì “đến xin giặc rủ lòng thương”; chủ trương của cụ Phan Bội Châu nhờ Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp chẳng khác nào “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, chủ trương của cụ Hoàng Hoa Thám tuy thực tế hơn, nhưng không có hướng thoát rõ ràng, “còn mang nặng cốt cách phong kiến”[3]. Thất bại của các bậc tiền bối đi trước đã nói lên một sự thật lịch sử là không thể cứu nước trên lập trường phong kiến hay lập trường của giai cấp tư sản, tiểu tư sản. Các đường lối và phương pháp này đều không đáp ứng được yêu cầu giải phóng dân tộc trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc đã trở thành hệ thống thế giới. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đang đòi hỏi được đổi mới, đó là một nhu cầu cấp thiết của dân tộc lúc bấy giờ.

Trong khoảng thời gian gần 10 năm (1911 - 1920), Người đã đi qua hàng chục quốc gia, từ các nước tư bản phát triển đến các nước thuộc địa ở châu Phi, châu Mỹ La-tinh. Người vừa phải tìm việc làm để kiếm sống, vừa tự học tập, tìm hiểu tình hình chính trị - xã hội của nước sở tại và các nước tư bản chủ nghĩa khác và tham gia hoạt động yêu nước ở nước ngoài. Đến đâu Người cũng quan sát kỹ lưỡng, so sánh, nhận xét, đi sâu tìm hiểu cuộc sống của các tầng lớp nhân dân, nhất là nhân dân lao động, để tìm hiểu sâu về nền văn hóa của các nước tư bản phát triển thời đó và thực chất của nền văn minh dựa trên chế độ người bóc lột người, chứ không phải đi cầu ngoại viện theo con đường “ỷ Pháp cầu tiến” của nhà chí sĩ yêu nước Phan Chu Trinh... Người hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và rút ra những nhận xét rất sâu sắc: Ở đâu, chủ nghĩa tư bản cũng tàn ác vô nhân đạo, ở đâu, giai cấp công nhân và nhân dân lao động cũng bị bóc lột dã man. Vì thế, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù, giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở đâu cũng là bạn. Người viết: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”[4]. Từ kết luận này đã đặt cơ sở cho phát triển quan điểm đúng đắn của Người về bạn, thù và sớm hình thành tư tưởng kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, về sự đoàn kết cách mạng ở chính quốc với cách mạng thuộc địa.

Trong những năm ở nước Mỹ và nước Pháp, Người dành nhiều thời gian tìm hiểu về các cuộc cách mạng nổi tiếng thế giới là cách mạng Mỹ (1776) với bản “Tuyên ngôn Độc lập” và cách mạng tư sản Pháp (1789) bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền”. Người rất khâm phục tinh thần cách mạng ở những nước này, nhưng không thể đi theo con đường của họ được. Bởi vì, như Người đã nói: “Kách mệnh Mỹ cũng như kách mệnh Pháp là kách mệnh tư bản, kách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước đoạt công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”[5]. Bằng nhãn quan chính trị sắc sảo, Nguyễn Ái Quốc đã vượt trên hẳn tư duy tìm đường cứu nước của các nhà cách mạng tiền bối. Người đã kiên quyết không lựa chọn con đường cách mạng tư sản, bởi theo Người, đó là những cuộc cách mạng “không đến nơi”, không triệt để vì nó không hề đề cập đến vấn đề giải phóng mọi tầng lớp nhân dân lao động khỏi sự áp bức, bóc lột, bất công.

Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công đã thức tỉnh các dân tộc thuộc địa trên thế giới, thức tỉnh những người nô lệ khắp năm châu. Từ thành công của cách mạng Tháng Mười Nga, Quốc tế Cộng sản – Quốc tế III do V.I. Lênin sáng lập ra đời. Cách mạng Tháng Mười Nga có ảnh hưởng rất lớn đến tình cảm và nhận thức của Nguyễn Tất Thành. Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng xã hội Pháp. Ngày 18/6/1919, với tên Nguyễn Ái Quốc, chàng thanh niên thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi bản yêu sách tới Hội nghị Vécxây yêu cầu về quyền tự do, dân chủ, bình đẳng dân tộc cho nhân dân An Nam. Tuy bản yêu sách không được chấp nhận nhưng đã được lan truyền rộng rãi, gây tiếng vang lớn trong dư luận nước Pháp, thức tỉnh tinh thần đấu tranh của các nước thuộc địa; đồng thời cũng đem lại cho Nguyễn Ái Quốc một nhận thức là các dân tộc muốn được giải phóng chỉ có thể dựa vào sức của chính mình.

Một trong những sự kiện quyết định đến sự lựa chọn dứt khoát con đường của cách mạng Việt Nam đó là khi Nguyễn Ái Quốc được tiếp xúc với “Luận cương về các vấn đề thuộc địa và dân tộc” của Lênin. Đây là một trong những văn kiện được V.I. Lênin viết xong vào tháng 6, 7 năm 1920 để trình bày tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản, họp từ 19/7 đến 07/8/1920; ngay sau đó, bản Luận cương này đã được đăng trên tạp chí Quốc tế cộng sản số 11, ngày 14/7/1920; và trên báo Nhân đạo (L’Humanité) - cơ quan ngôn luận của Đảng Xã hội Pháp, số ra ngày 16 và 17/7/1920.

2

Luận cương đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc những băn khoăn về con đường giành độc lập, tự do cho dân tộc, trả lời câu hỏi ai là người lãnh đạo, lực lượng tham gia và mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc. Từ đây, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra "cẩm nang thần kỳ" cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Khi nói về sự kiện này, Người kể lại: “Bản Luận cương làm cho tôi cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi xúc động đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ, đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta và từ đó, tôi đã có một sự lựa chọn: tán thành Quốc tế thứ ba và hoàn toàn tin theo Lênin”[6]. Trong bài viết “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”, Hồ Chí Minh cho biết thêm rằng: “Lúc bấy giờ tôi ủng hộ Cách mạng Tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên. Tôi chưa hiểu hết tầm quan trọng lịch sử của nó. Tôi kính yêu Lênin vì Lênin là một người yêu nước vĩ đại đã giải phóng đồng bào mình; trước đó, tôi chưa hề đọc một quyển sách nào của Lênin viết (…). Tôi  tham gia Đảng Xã hội Pháp vì họ ủng hộ cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Còn như đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì thì tôi không hiểu (…). Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải là chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh vừa nghiên cứu lý luận Mác – Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ[7].

Tin theo Lênin, đi theo con đường của Lênin vĩ đại, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp diễn ra cuối năm 1920 ở thành phố Tua (Pháp), Nguyễn Ái Quốc khi ấy tham dự với tư cách là đại biểu chính thức đã cùng những người chủ trương gia nhập Quốc tế III tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản. Kể từ phút ấy, Nguyễn Ái Quốc trở thành người cộng sản. Là một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp đồng thời Nguyễn Ái Quốc cũng là người cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Đây là một sự kiện chính trị vô cùng quan trọng trong đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và trong lịch sử Việt Nam.

3

Việc Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920 đánh dấu một bước chuyển biến quyết định, bước nhảy vọt, thay đổi về chất trong nhận thức tư tưởng và lập trường chính trị từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin. Sự lựa chọn và hành động của Nguyễn Ái Quốc khi đó hoàn toàn phù hợp với trào lưu tiến hóa của lịch sử, chuyển từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa cộng sản, đã kéo theo cả một lớp người Việt Nam yêu nước chân chính đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ đó, chủ nghĩa Mác-Lênin bắt đầu thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, cách mạng Việt Nam từ đây đã có một phương hướng mới. Người đã rút ra một luận điểm hết sức khoa học và cách mạng triệt để: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”[8]. Lựa chọn của Nguyễn Ái Quốc chứng tỏ: Người từ một nhà yêu nước chân chính trở thành một người Cộng sản chân chính; cách mạng Việt Nam chấm dứt sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Đây chính là điểm khác biệt căn bản giữa Nguyễn Ái Quốc với những người Việt Nam yêu nước tiền bối. Từ đây, Người đã từng bước chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời một Đảng mác-xít ở Việt Nam, nhân tố cơ bản, đầu tiên đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng nước ta.

Như vậy, xuất phát từ yêu cầu bức thiết của sự nghiệp giải phóng dân tộc, với tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc và sự khát khao về một nền độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, Nguyễn Ái Quốc đã quyết định tự mình ra đi tìm đường cứu nước. Thực hiện bước chuyển về chất trong tư tưởng và lập trường chính trị, Người đã hoàn tất chặng đường đầu của hành trình cứu nước, đã tìm ra chân lý của thời đại và bắt đầu cuộc đấu tranh đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân ta vào quỹ đạo của cuộc cách mạng vô sản. Người đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người đã tạo ra bước ngoặt lớn nhất trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đưa nước ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”[9]. Đây là quan điểm nhất quán và sự lựa chọn nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam, là sự kế thừa và phát triển những giá trị mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh để lại.

____________

[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội 2011, tr 461

[2] Ba lần nói chuyện với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Báo Nhân Dân số ra ngày 18/5/1965

[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội 2011, tr 314

[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội 2011, tr 266

[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội 2011, tr tr 296

[6] Vừa đi đường vừa kể chuyện, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr 17

[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội 2011, tr 562 và 563

[8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội 2011, tr 30

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội 2021, tr 109

 

4