Skip to main content
x
19 September 2022

Ngay từ khi còn đang trong quá trình tìm con đường giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã có những nhận thức sâu sắc về vai trò, ý nghĩa của Nhà nước pháp quyền đối với việc tổ chức và quản lý xã hội. Người chủ trương sau khi Việt Nam giành được độc lập, chúng ta phải xây dựng một Nhà nước kiểu mới - Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thống quan điểm của Người về bản chất, mô hình, phương thức tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền kiểu mới nhằm thực hiện thành công mục tiêu của cách mạng Việt Nam.

Mục đích trong suốt cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc, thực hiện đại đoàn kết, độc lập và hòa hợp dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; thiết lập một chính quyền mới, chính quyền đó hoạt động phải có hiệu quả, chăm lo đến sự ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Để thực hiện nhiệm vụ chính trị đó, Hồ Chí Minh tiếp thu một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện của Việt Nam để xác định đúng và rõ mục tiêu, phương thức, biện pháp để đạt mục tiêu đó. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền được hình thành và phát triển, từng bước gắn với thực tiễn đời sống xã hội Việt Nam.

Từ rất sớm, Nguyễn Tất Thành đã được nghe khẩu hiệu nổi tiếng của đại cách mạng Pháp năm 1789: "Tự do, bình đẳng, bác ái". Từ đây, Người nảy ra ý muốn tìm hiểu những gì ẩn giấu sau những từ ấy. Sau 10 năm tìm đường cứu nước (1911- 1920) Nguyễn Tất Thành đã qua Châu Phi, Trung Mỹ, Nam Mỹ và đến nước Mỹ. Nguyễn Tất Thành tìm hiểu cuộc đấu tranh giành độc lập  của nhân dân Mỹ với bản Tuyên ngôn độc lập (1776) nổi tiếng. Rời nước Mỹ, Nguyễn Tất Thành đi Anh, Người lao động, học tập và tham gia Hội những người lao động hải ngoại. Cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành trở lại Pari hoạt động trong phong trào công nhân và tham gia Đảng Xã hội Pháp (1920). Tháng 6-1919, nhân Hội nghị các nước đế quốc thắng trận trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), Nguyễn Ái Quốc thay mặt nhóm người yêu nước An Nam ký tên và gửi bản yêu sách của nhân dân An Nam đến các đại biểu các nước Đồng minh dự Hội nghị Vécxây.

Từ năm 1919, xu hướng cộng sản xuất hiện và phát triển mạnh ở Pháp. Sau thời gian khảo sát, tìm tòi kinh nghiệm đấu tranh ở các nước, học tập lý luận, sát cánh với giai cấp công nhân, nhất là trí thức Việt Nam tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc ngày càng sáng tỏ con đường giải phóng dân tộc. Cũng trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế III.

Từ khi tham gia Đảng Xã hội Pháp và trở thành người cộng sản (1920), Người đã xúc tiến mạnh mẽ hơn việc nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Cách mạng Tháng Mười Nga vào phong trào giải phóng dân tộc và phong trào vô sản ở các nước thuộc địa, trước hết ở Việt Nam, thông qua Hội liên hiệp thuộc địa ở Pari (1921) trong đó Hội Người Việt Nam yêu nước làm nòng cốt, và qua các báo như: Người cùng khổ, Nhân đạo...Tư tưởng nhà nước pháp quyền manh nha từ ý tưởng của Nguyễn Ái Quốc trong Bản yêu sách của nhân dân An Nam (1919) đòi thay đổi "chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật" và trong bài Việt Nam yêu cầu ca (1922): "Bảy xin Hiến pháp ban hành, Trăm đều phải có thần linh pháp quyền". Tư tưởng nhà nước pháp quyền được xác lập rõ nét trong Tuyên ngôn Độc lập, ngày 2-9-1945, tiếp sau đó một ngày với lời khẳng định: "chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ" đã tỏ rõ ý chí xây dựng nhà nước pháp quyền. Hiến pháp năm 1946 do Hồ Chí Minh trực tiếp làm Trưởng ban soạn thảo thể hiện khá đậm nét tính chất và nội dung của tinh thần "Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân".

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền là một hệ thống lý luận với những nội dung rất phong phú, tư tưởng đó thể hiện ở những nội dung sau:

1. Nhà nước dân chủ nhân dân phải là nhà nước có nền dân chủ thật sự và toàn diện

Theo Hồ Chí Minh, cơ sở tồn tại và phát triển của nhà nước là dân tộc, đại đoàn kết và hòa hợp dân tộc. Tại Hội nghị của toàn thể Ban Trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương họp tháng 9-1937, Người nói: "Các đồng chí mắc phải cái bệnh thiên về thợ thuyền lao động quá, có khi chỉ biết có đám người ấy thôi mà quên hết cả quyền lợi của các tầng lớp, các giai cấp khác, quyền lợi chung của dân tộc cần phải bênh vực. Các đồng chí trong Đảng cần phải hiểu rằng Đảng ta chẳng những là kẻ bênh vực và lãnh đạo cho giai cấp vô sản mà thôi mà cũng là kẻ bênh vực và lãnh đạo cho cả toàn thể dân chúng nữa. Đảng phải làm tròn vai trò ấy"[1]. Hồ Chí Minh cho rằng dân là quý nhất, lực lượng to lớn nhất, từ vị thế to lớn của nhân dân, trên báo Sự thật, số 120, ngày 15-10-1949, với đầu đề Dân vận, Hồ Chí Minh khẳng định:

"Nước ta là nước dân chủ

Bao nhiêu lợi ích đều vì dân

Bao nhiêu quyền hạn đều của dân

Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân…”[2]

Hồ Chí Minh luôn luôn có lòng tin tuyệt đối vào nhân dân, vào dân tộc vì lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Nhà nước từ nhân dân mà ra, song nhà nước muốn làm bất cứ một việc gì đều phải thật sự dựa vào dân thông qua việc huy động nhân tài, vật lực của dân. Tư tưởng đầu tiên về Nhà nước pháp quyền của Hồ Chí Minh là vấn đề dân chủ hóa. Hồ Chí Minh không những rất quan tâm đến vấn đề dân chủ cho nhân dân, mà còn làm sao cho nhân dân được hưởng quyền dân chủ, biết dung quyền dân chủ. Trong tác phẩm Đường Cách mệnh (1927), khi phân tích kinh nghiệm cuộc cách mạng ở Pháp, Mỹ, Nga, Hồ Chí Minh chỉ rõ cách mạng Pháp cũng như cách mạng Mỹ là cách mạng không đến nơi, tiếng là dân chủ và cộng hòa, kỳ thực trong thì bóc lột công nông, ngoài thì áp bức thuộc địa. Điều đặc biệt, Hồ Chí Minh đã tiếp thu nền dân chủ phương Tây để nhìn nhận ra ba quyền mà nhà nước phải đảm bảo cho công dân: quyền chính trị, quyền kinh tế và quyền xã hội, với tư tưởng dân chủ đó, Người đã triển khai trong quá trình xác lập quyền dân chủ ở Việt Nam thông qua các bản Hiến pháp như: Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959. Chỉ có phát huy dân chủ mới có thể tạo ra sức mạnh to lớn, bền vững cho nhà nước cách mạng, dân chủ xã hội, dân chủ chính trị gắn với pháp luật dân chủ là bản chất của nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Trong quá trình điều hành đất nước, Hồ Chí Minh nhắc đi nhắc lại nhiều lần dân chủ thực sự, “chúng ta phải ra sức thực hiện những cải cách xã hội, để nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện dân chủ thực sự”[3].

Dân chủ là điều kiện không thể thiếu được trong nhà nước pháp quyền, để đảm bảo hoạt động bình thường, phát huy tính tích cực của mọi người dân. Trong tư tưởng và thực tế hoạt động xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân, Hồ Chí Minh đã lựa chọn những hạt nhân hợp lý cả hai hình thức: dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.

2. Nhà nước pháp quyền dân chủ nhân dân phải là nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng hệ thống pháp luật dân chủ

Nhà nước pháp quyền phải là nhà nước “dân chủ triệt để”, “dân chủ đến cùng”, “dân chủ toàn diện”, đồng thời phải là một nhà nước hợp hiến hợp pháp, quản lý xã hội bằng một một hệ thống pháp luật dân chủ. Hồ Chí Minh có quan niệm mới về nhà nước pháp quyền, đó là nhà nước quản lý xã hội bằng hệ thống pháp luật, nhưng không phải là hệ thống pháp luật bất kỳ, mà là hệ thống pháp luật dân chủ. Tư tưởng về pháp luật dân chủ của Hồ Chí Minh cũng đã được thể hiện trong Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 7 (11-1940), đó là yêu cầu phải ban bố hiến pháp dân chủ, ban bố những quyền tự do cho nhân dân, tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng, tự do hội họp. “Trăm đều phải có thần linh pháp quyền” trong tư tưởng Hồ Chí Minh bao hàm mọi người, mọi hành vi, mọi hoạt động ở mọi nơi, mọi lúc, kể cả các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và nhân viên của nhà nước từ xã đến Trung ương do dân cử ra phải có ý thức đặt mình dưới “thần linh pháp quyền”. Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện trong Việt Nam yêu cầu ca ra đời từ những năm 1920 đến nay vẫn phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam thực sự của dân, do dân, vì dân hiện nay.

Sau cách mạng Tháng Tám thành công, tại phiên họp đầu tiên của Chính Phủ (3-9-1945), Hồ Chí Minh đã nêu 2 trong 6 nhiệm vụ cấp bách liên quan đến xây dựng chính quyền: tổng tuyển cử và xây dựng Hiến pháp dân chủ. Theo Hồ Chí Minh, tổng tuyển cử là dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đủ đức để gánh vác công việc nhà nước, ngày bầu cử là ngày hội, nhân dân được hưởng quyền dân chủ của mình. Kết quả là tổng tuyển cử bằng phổ thông đầu phiếu đã diễn ra ở Việt Nam, và sau đó Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã được thông qua.

Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, song đó phải là pháp luật mang tính dân chủ, thể hiện được lợi ích của số đông, Người cho rằng luật pháp của chúng ta là ý chí của giai cấp công nhân, pháp luật bảo vệ quyền lợi cho người lao động, pháp luật ta là pháp luật thật sự dân chủ, nhân dân ta hiện nay có tự do nhưng tự do trong kỷ luật. Kế thừa quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về pháp luật. Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển đề cao tính nghiêm minh của pháp luật phải gắn với đạo đức, với tình thương và sự khoan dung. Tư tưởng pháp luật của Hồ Chí Minh không chỉ là đề cao pháp luật dân chủ mà còn mang đậm tính nhân văn. Hồ Chí Minh đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội. Kế thừa văn hóa phương Đông nhưng không tuyệt đối hóa dẫn đến đức trị như Khổng Tử, hoặc pháp trị như Hàn Phi Tử, Hồ Chí Minh kết hợp nhuần nhuyễn giữa pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Trong suốt 24 năm, trên cơ sở tư tưởng pháp quyền dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm đến xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Từ năm 1950 khi nói chuyện với các cán bộ tư pháp, Hồ Chí Minh đã chỉ ra: luật pháp của ta hiện nay chưa đầy đủ, chính các chú có trách nhiệm phải góp phần làm cho luật pháp của ta tốt hơn, càng ngày càng phong phú hơn. Phải cố gắng làm theo pháp luật ngày càng nhiều hơn, tốt hơn.

Trên cơ sở kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh hết sức đề cao  nguyên tắc pháp chế, Hiến pháp năm 1946 đã dành hai điều quy định nghĩa vụ công dân, trong đó nghĩa vụ tôn trọng Hiến pháp, tuân thủ pháp luật được đặt ngay sau nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. Tôn trọng Hiến pháp, tuân thủ pháp luật là nghĩa vụ, trách nhiệm của mọi công dân, nhất là đảng viên giữ vai trò chủ chốt phải gương mẫu đi đầu. Theo Người: đảng viên chẳng những phải giữ kỷ luật sắt mà còn phải giữ gìn kỷ luật chính quyền của cơ quan, đoàn thể của nhân dân. Hồ Chí Minh đòi hỏi đảng viên, cán bộ, đặc biệt cán bộ cấp cao phải nêu gương thực hiện pháp luật.

Về phương thức hoạt động nhà nước, Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc từ nhiều nhà tư tưởng lớn của nhân loại và được nhấn mạnh rằng: nhà nước phải là đầy tớ của nhân dân.

3. Nhà nước pháp quyền dân chủ nhân dân phải là công cụ bảo vệ và phát triển con người và quyền con người

Giải phóng con người là mục tiêu của một nhà nước kiểu mới với sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Sau Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) thành công. Lênin tiếp thu và phát triển chủ nghĩa Mác vào việc xây dựng nhà nước kiểu mới, xác định rõ mục đích của chính quyền Xôviết là thu hút những người lao động tham gia vào quản lý nhà nước, thực hiện một nền dân chủ rộng rãi nhằm giải phóng con người và phát triển toàn diện con người trong xã hội mới.

Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong điều kiện Việt Nam và thời đại mới, Hồ Chí Minh có cách tiếp cận rất sâu sắc về vấn đề con người và quyền con người. Đảm bảo quyền con người là ham muốn tột bậc của Người, trên cơ sở các học thuyết từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc về bản chất con người, từ đó đã có sự cảm thông sâu sắc đối với con người, nhất là thân phận người nô lệ. Chính những điều đó đã khơi dậy trong Hồ Chí Minh khát vọng giải phóng con người, giải phóng xã hội, giành lại độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam. Trong một lần trả lời phỏng vấn của một nhà báo nước ngoài, Người đã nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”[4]. Tư tưởng về con người, quyền con người đã được Hồ Chí Minh bổ sung, phát triển trong quá trình xây dựng nền dân chủ nhân dân, nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân và hệ thống pháp luật dân chủ. Trước Tổng khởi nghĩa, Đại hội đại biểu quốc dân ở Tân Trào (16-8-1945) dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh, đã thông qua Nghị quyết về Tổng khởi nghĩa và cử ra Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, trong đó có quy định về vấn đề nhân quyền như: Ban bố những quyền của dân, do dân: Nhân quyền, Tài quyền, Dân quyền. Tư tưởng này của Hồ Chí Minh đã được thể chế hóa ở 18 điều trong Hiến pháp 1946 và 21 điều trong Hiến pháp 1959.

Nhà nước pháp quyền là nhà nước có trách nhiệm pháp lý bảo vệ và phát triển con người, quyền công dân vì “chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập ấy cũng chẳng làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”[5]. Chính vì vậy, nhà nước phải có chính sách phát triển kinh tế - xã hội thiết thực đáp ứng lợi ích của nhân dân lao động.

Tóm lại, tư tưởng và hành động về xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Hồ Chí Minh đã không hoàn toàn phá bỏ bộ máy cũ khi cách mạng thành công, Người đã kế thừa có chọn lọc những hạt nhân hợp lý của chính quyền cũ, của cách tổ chức cũ, luật pháp cũ. Tiếp thu và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Kế thừa và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã lãnh đạo cả hệ thống chính trị và toàn xã hội kiên quyết, đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, từng bước xây dựng hệ thống pháp luật hiện đại, nhà nước trong sạch, vững mạnh./.

ThS. Chu Minh Tâm

Phòng QLĐT & NCKH

 

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, HN, 2000, t.6, tr.285

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, HN. 2000, t.5, tr.698

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, HN. 2000, t.7, tr.323

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, HN. 2000, t.12, tr.517

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, HN. 2000, t.4, tr.152