Skip to main content
x
16 November 2020

Đại đoàn kết toàn dân tộc - di sản vô giá, truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Đại đoàn kết đã trở thành một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Tinh thần yêu nước, trọng nhân nghĩa, khoan dung, sự cố kết, đùm bọc yêu thương nhau đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn mỗi người dân, trở thành lẽ sống, chất kết dính gắn bó các thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Lịch sử mấy ngàn năm tồn tại và phát triển của dân tộc ta đã chứng minh truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng đều kết thành sức mạnh vô địch, đưa Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thách thức, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích vẻ vang. Nhờ tinh thần đoàn kết, nhân dân ta đã vượt qua mọi gian lao, thử thách, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, giữ vững non sông bờ cõi, viết nên những trang sử vàng hào hùng của dân tộc.

Vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc trong lịch sử giành và giữ chính quyền

Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và trong suốt 90 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã được phát huy cao độ với quyết tâm “mang sức ta giải phóng cho ta”, “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng kiên quyết giành cho được độc lập”, khi thời cơ đến, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, hơn 20 triệu người dân Việt Nam đã đứng dậy giành chính quyền làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vĩ đại, đem lại nền độc lập cho dân tộc và quyền tự do cho nhân dân. Chấm dứt chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại suốt 2000 năm trong lịch sử Việt Nam.

Trong kháng chiến chống Pháp, với khẩu hiệu: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ…” và sự đồng lòng của toàn dân tộc: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc… ” đã phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân vừa kháng chiến, vừa kiến quốc để làm nên thắng lợi Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trường kỳ, gian khổ với khát vọng của toàn thể dân tộc Việt Nam: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” đã được vận dụng một cách sáng tạo, phát huy tới đỉnh cao với nhiều hình thức phong phú trong điều kiện lịch sử mới với khẩu hiệu hành động: “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ, xâm lược”, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, các tổ chức đoàn thể đều có phong trào:“Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”, “Tay cày, tay súng”, Tay búa, tay súng”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”... đã lôi cuốn đông đảo mọi tầng lớp nhân dân, từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền núi, từ biên giới đến hải đảo hăng hái thi đua vừa chiến đấu vừa lao động sản xuất. Tất cả những hành động đó đã biểu thị tinh thần đoàn kết của toàn thể 31 triệu người dân Việt Nam tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Do vậy, nhân dân Việt Nam phát huy tối đa sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để đánh thắng một cường quốc quân sự hùng mạnh nhất thế giới để thống nhất đất nước.

Tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời đại cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

Trong quá trình đổi mới, thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, đất nước ta đang đứng trước nhiều vấn đề mới đặt ra, tác động đến tư tưởng, tình cảm, đời sống của nhân dân, ảnh hưởng không nhỏ tới sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội ngày càng gay gắt; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, xâm phạm quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người dân... còn diễn biến phức tạp, gây bức xúc trong dư luận cùng với các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục chĩa mũi nhọn tấn công, hòng phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực tế này đang làm xói mòn lòng tin của nhân dân, trở thành thách thức đối với mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Thực tiễn đòi hỏi phải tiếp tục củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh to lớn của toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời đại cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tiếp tục thực hiện tốt các phong trào, các cuộc vận động do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động như: cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; Phong trào “Cả nước chung tay vì người nghèo – Không để ai bị bỏ lại phía sau”; Phong trào thi đua “Doanh nghiệp Việt Nam hội nhập và phát triển”; phong trào “Cán bộ, công chức, viên chức thi đua thực hiện văn hóa công sở”;  và ngày đại đoàn kết toàn dân tộc ngày 18/11 hàng năm qua đó góp phần củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở cơ sở. Đồng thời, để tiếp tục phát huy sức mạnh phải thực hiện tốt một số giải pháp sau đây:

Một là, tiếp tục thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc như Nghị quyết số 23-NQ/TW, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; Nghị quyết số 20-NQ/TW,  Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đai hóa đất nước; Nghị quyết số 26-NQ/TW, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn... nhằm khơi dậy, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước trong thời kỳ mới.

Hai là, tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” gắn với “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” theo Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII; xây dựng các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh. Qua đó, củng cố, tăng cường lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Ba là, đẩy mạnh công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp “gần dân, hiểu dân, học dân, trọng dân và có trách nhiệm với dân”, gương mẫu, tận tụy với công việc, nói đi đôi với làm, thực sự là công bộc của nhân dân. Đề cao vai trò nêu gương của đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là những người có chức, có quyền. Kiên quyết chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền vi phạm quyền dân chủ của nhân dân. Tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong Đảng và trong bộ máy công quyền trên cơ sở làm rõ trách nhiệm cá nhân đối với những hành vi coi thường và làm tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật, củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước.

Bốn là, quan tâm chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của nhân dân; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn xã hội; huy động sức dân đi đôi với bồi dưỡng sức dân; phát huy dân chủ gắn liền với giữ nghiêm kỷ cương, phép nước, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Thực hiện hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân phát huy trách nhiệm công dân, đạo đức xã hội, đạo đức nghề nghiệp, xây dựng sự đồng thuận xã hội và đề cao ý thức trách nhiệm cộng đồng, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tích cực, chủ động tham gia xây dựng và giám sát việc thực hiện các chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở địa phương. Thường xuyên đối thoại, lắng nghe, tiếp thu, tập trung giải quyết các khó khăn, vướng mắc, bức xúc, nguyện vọng chính đáng của người dân; xử lý nghiêm minh các vụ việc tiêu cực, tham nhũng; giải quyết ổn định những vụ việc khiếu kiện đông người, không để kéo dài, phức tạp. Chủ động định hướng dư luận và đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch, phản động, kẻ xấu hòng gây mất đoàn kết trong nhân dân, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Năm là, tiếp tục thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc, miền núi và vùng đồng bào có đạo; rà soát, điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện những chính sách đã có và nghiên cứu ban hành những chính sách mới để đáp ứng yêu cầu phát triển các vùng dân tộc, vùng tôn giáo và thực hiện nhiệm vụ công tác dân tộc, công tác tôn giáo trong tình hình mới. Quan tâm chăm lo từng hộ dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vận động và giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc.

Phát huy vai trò của người có uy tín trong đồng bào các dân tộc, chức sắc tôn giáo trong việc thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ an ninh, trật tự trên địa bàn. Qua đó, tăng cường đoàn kết các dân tộc và sự đồng thuận giữa những người có tín ngưỡng, tôn giáo với những người không tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người có các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; đồng thời, tích cực đấu tranh chống những biểu hiện kỳ thị, chia rẽ dân tộc, mê tín, dị đoan, lợi dụng dân tộc, tôn giáo chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Sáu là, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động nhằm nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc. Đa dạng hóa các hình thức tập hợp, động viên nhân dân đồng tâm, hiệp lực thực hiện thắng lợi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tích cực nắm bắt, phản ánh kịp thời tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của đoàn viên, hội viên; đồng thời làm tốt vai trò giám sát đối với các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, góp phần xây dựng chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh.

Có thể khẳng định, đoàn kết là bài học vô cùng quý giá không bao giờ cũ trong mọi thời kỳ. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng. Trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, để đánh bại các thế lực thù địch, diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ, âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc nếu chỉ có tinh thần yêu nước thì chưa đủ; cách mạng muốn thành công và thành công đến nơi, phải tập hợp được tất cả mọi lực lượng có thể tập hợp, xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc bền vững như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

                                                                       Triệu Thị Huệ

                                                                   Khoa Xây dựng Đảng